CHƯƠNG 4 - XỬ LÝ VẤN ĐỀ

6. THẾ NÀO LÀ THIỆN

Nhận biết Thiện phải xem ở tồn tâm [1]

Thế nào gọi là Thiện? Đánh người, mắng người có phải là thiện không? Cúi chào 90 độ, có khi còn cúi chào 120 độ với người khác, như thế có phải là thiện không? Thiện có tiêu chuẩn, “Đệ Tử Quy” là tiêu chuẩn vô cùng tốt. Từ chỗ nào mà phán đoán được Thiện? Từ tồn tâm có thể phán đoán ra là thiện thật hay thiện giả. Một người vô cùng cung kính với người khác nhưng anh ta chỉ cung kính với cấp trên mà chẳng nể nang với cấp dưới, đây không phải là thiện thật. Anh ta có mục đích, là để “dựa rồng bám phụng“, là để bản thân được thăng tiến, loại tồn tâm này là tự tư tự lợi, là ác. Nhìn người không thể chỉ nhìn vào một điểm, phải nhìn cả chặng đường, phải nhìn mọi mặt, nhìn xem có phải đối với bất kỳ người nào họ đều dùng chân tâm hay không?

Nếu nhìn thấy một người đánh người mắng người thì người thông thường sẽ nghĩ rằng đánh người mắng người là không tốt, nhưng chúng ta tỉ mỉ mà quan sát, họ tát một tát liền khiến cho đối phương tỉnh lại, đó gọi là “Cùng khuyên thiện, cùng lập đức; lỗi không ngăn, đôi bên sai“. Bạn bè người thân phạm sai lầm, bạn không khuyên họ thì không những họ sai mà bạn cũng sai, bởi vì bạn không tận hết bổn phận. Tôi có một người bạn, có một lần bị tôi mắng cho nửa giờ đồng hồ. Hôm sau anh ấy gọi điện cho tôi nói:

– Đến nay tôi hơn ba mươi tuổi rồi mới nhận được một món quà sinh nhật ý nghĩa nhất, chính là hôm qua được anh mắng tôi.

Tôi mới biết hôm qua là sinh nhật của anh. Tôi cũng từ trong trường hợp này mà thể hội được, phước phần của một người là ở chỗ nào? Ở chỗ tiếp nhận lời khuyên. Có thể tiếp nhận lời khuyên của người khác thì phải có phước lớn, tâm lượng lớn, có thể khoan dung, cho nên có thể tránh khỏi được rất nhiều nguy hiểm trong cuộc sống, bởi vì họ có thể rộng lượng tiếp nhận lời khuyên. Chúng ta biết người bạn này rất tín nhiệm chúng ta thì lúc này phải đánh một đòn cho anh ấy tỉnh lại, khi bạn suy nghĩ vì đối phương, thì tâm này chính là thiện.

Tâm chân thật thì tất cả đều chân thật

Chúng ta thấy bất cứ sự việc nào cũng đều phải bắt đầu từ căn bản, vậy thì tất cả hành vi biểu hiện ra từ đâu? Là từ Tâm. Hành vi là phản chiếu của tâm, lời nói, động tác đều là phản chiếu của tâm, tâm và hành không tách biệt. Khi tâm chúng ta là vì người khác mà nghĩ, thì lời nói và hành vi biểu hiện ra chính là vì lợi ích của người khác, đó gọi là tâm hành nhất như. Nâng cao đạo đức học vấn của con trẻ phải bắt đầu từ chỗ nào? Bắt tay từ tồn tâm của chúng, nói thẳng ra thì gọi là một cái chân thật thì tất cả đều chân thật [2]. Một cái chân thật là gì? Là tâm chân thật. Tất cả là gì? Là hành vi. Tâm chân thật thì tất cả hành vi đều sẽ chân thật; tâm không chân thật thì tất cả hành vi đều là giả. Đừng nhìn vào đứa trẻ nào đó cung kính cúi chào bạn, có thể sau khi bạn đi rồi thì nó lại thay hình đổi dạng. Học tập phải nắm được căn bản, nắm được điều chân thật, đó chính là TÂM. Một đứa trẻ có tâm hiếu thì tất cả những hành vi của nó đều là hiếu thuận, là tâm chân thật; một đứa trẻ có tâm cung kính thì tất cả những hành vi của nó đều là cung kính. Do đó, không được xem nhẹ lễ nghi, không được xem nhẹ lễ phép của trẻ nhỏ với người lớn. Những lễ nghi, lễ phép này đều là từ bên ngoài dần dần được nội hoá trở thành thái độ trong tâm của trẻ nhỏ. Sau khi trẻ nhỏ đã nội hoá thì lời nói và hành vi sẽ không rời khỏi tâm cung kính.

Trong cuộc sống, đối diện với bất kỳ người nào, bất kỳ sự vật nào, thật ra đều là tấm gương của chính mình. Khi bạn đối xử tốt với họ thì họ cũng hồi đáp lại những điều tốt đẹp; khi bạn đối xử với họ không tốt thì họ phản chiếu trở lại chính là những tín hiệu xấu. Cuộc sống giống như là một tấm gương soi, khi chúng ta đứng trước gương mà soi thấy sắc mặt vui vẻ thì chứng tỏ tâm của bạn là luôn luôn quan tâm và cung kính đối với người. Chúng ta học tập học vấn của Thánh Hiền thì trong đầu không được nghĩ bất kỳ người nào không thuận mắt, không được nghĩ làm cho bất kỳ người nào cảm thấy áy náy khó chịu, mà mỗi ngày chúng ta nên nghĩ xem mọi người quan tâm chúng ta như thế nào, chúng ta phải nhanh chóng hoàn thiện bản thân để báo đáp họ.

Khi chúng ta quán chiếu bằng chiếc gương cuộc đời này mà thấy có 50 người đang mỉm cười với chúng ta, có 50 người đang kêu khóc với chúng ta, thậm chí là rất dữ dằn với chúng ta, xin hỏi 50 người mỉm cười mà chúng ta có được là thật hay là giả? Tâm chân thật thì tất cả chân thật. Một người thực sự có thể khoan dung người khác thì tuyệt đối không phải chỉ có 50% khoan dung, còn 50% vẫn không thể bao dung được, đây chẳng phải là lừa mình dối người hay sao? Điều này chứng minh chúng ta vẫn chưa thật sự thực hiện giáo huấn của Thánh Hiền. Vì sao chỉ có 50% là mỉm cười với chúng ta? Bởi vì họ nghe theo lời nói của bạn, bạn bảo sao thì họ làm vậy, họ thuận theo bạn thì bạn mới vui vẻ chào đón họ; nếu họ không thuận theo bạn thì bạn sẽ đối xử với họ bằng sắc mặt không tốt, đây chính là để cho tâm hiếu ác[3] sai khiến, tâm hiếu ác là giả, không phải chân thật. Dùng tâm hiếu ác đối xử với người, mặc dù có một số người mặt mày hớn hở với chúng ta, nhưng về lâu dài chung sống với nhau nói chung sẽ xảy ra va chạm, lập tức từ mặt cười biến thành mặt xấu. Đạo đức học vấn của con người phải đề khởi lên được tâm cung kính, đề khởi lên được tâm khoan thứ mọi lúc mọi nơi, như vậy mới là học vấn chân thật. Người cầu học vấn quý ở chỗ tự biết mình, không được lừa mình dối người.  

Tự lợi là ác, lợi người là thiện

Liễu Phàm Tứ Huấn” phân biệt “Thiện” rất thấu triệt. Trong đó nêu lên: Thiện có thật, có giả, có thẳng, có cong, có âm, có dương, có đúng, có sai, có lệch, có chánh, có vơi, có đầy, có lớn, có nhỏ, có khó, có dễ, đều phân biệt tỉ mỉ. “Liễu Phàm Tứ Huấn” có một ví dụ: có một nhóm người đọc sách đến thỉnh giáo Hoà thượng Trung Phong, họ hỏi:

– Đánh người, mắng người là ác phải không?

 Hoà thượng Trung Phong trả lời rằng:

– Chưa chắc đã vậy!

Hoà thượng Trung Phong chỉ dạy cho họ, phải từ tâm mà quan sát, nếu mục đích đánh người, mắng người là nhằm thức tỉnh đối phương thì tâm đó chính là thiện, một đòn này đánh xuống mà khiến cho đối phương tỉnh ngộ thì đánh người cũng là thiện. Nếu đánh mà không thể thức tỉnh đối phương thì không được đánh. Người đọc sách lại hỏi:

– Lễ kính với người, cung kính với người, lễ phép với người là Thiện chăng?

Hoà thượng Trung Phong nói:

– Chưa chắc đã vậy!

Nếu họ là vì cầu công danh lợi lộc, vì nịnh nọt để thăng quan thì đó là ác.

Từ ví dụ trên, chúng ta hiểu rõ được: vì người khác là thiện, tự tự tự lợi chính là ác; có thể một lòng vì việc chung tức là thiện, niệm niệm vì việc riêng tức là ác. Cho nên từ trên căn bản để phân biệt chân thật hay giả dối thì sẽ rất dễ đoán định ra được.

Để khuyên bảo người khác, hai bên cũng phải xây dựng trên cơ sở đầy đủ tín nhiệm. “Kết giao nông cạn thì không nói lời sâu xa” [4], tình bạn với nhau sâu dày mà chúng ta không thức tỉnh họ, thì cả tình và lý đều chẳng phù hợp, đây gọi là “có thể nói, mà chẳng chịu nói” [5], chính là không tận hết bổn phận làm bạn bè. Chỉ cần chúng ta dùng tâm chân thành đối xử với người thì sẽ không có sai lệch quá nhiều.

Xin hỏi: Một người rất chăm chỉ là thiện hay ác? Cái này cũng phải xem ở tồn tâm của họ. Có một người đi công tác xa, về đến nhà ngay cả cha mẹ mình cũng không đi thăm hỏi, trong khi không ngừng quan tâm đến khách hàng. Rất nhiều người nói: “Những người làm việc chăm chỉ như vậy là người tốt!”. Nhưng bạn phải nhìn xem phương hướng và động cơ chăm chỉ của anh ta là gì? Nếu cả đời anh ta chỉ vì danh văn lợi dưỡng của mình thì sự chăm chỉ này cũng là ác, bởi vì anh ta chỉ có danh lợi mà không có cha mẹ. Cho nên nhìn người phải nhìn cho thật sâu sắc thì mới có thể phân biệt được thật – giả.

Âm thiện và Dương thiện

Thiện có “Âm – Dương” khác nhau, hành thiện không muốn người biết chính là âm đức, hành thiện mà thường hay khoe khoang thì chính là dương thiện, dương thiện thì hưởng danh tiếng ở thế gian, âm đức thì được quả báo cõi trời. Chúng tôi cũng từng nghe thấy có một trường học nọ tổ chức quyên góp để giúp đỡ một số học sinh nghèo. Việc quyên góp đó có một quy định, nếu học sinh góp được 500 đồng thì lúc tổ chức tiệc được đeo một bông hồng nhỏ, còn được thắp nến. Xin hỏi: Động cơ quyên tiền của trẻ nhỏ là ở đâu? Là được đeo bông hồng nhỏ, được thắp nến. Do đó, phong khí hành thiện là vì danh tiếng thì sẽ làm ra hình mẫu không tốt cho thế hệ sau. Cho dù cách làm của trường học là vì tuyên dương những hành động tốt này thì người làm cha mẹ cũng phải nói riêng với con cái rằng: những việc này đều là việc chúng ta nên làm, không cần phải tuyên dương to tát gì cả.

Nhận biết Thiện phải xem ảnh hưởng về sau

Trong thiện cũng có đúng có sai, có lệch có thẳng, có vơi có đầy, có lớn nhỏ, có khó dễ. Trong “Liễu Phàm Tứ Huấn” giải thích được rất tường tận. Tôi lấy đúng – sai để nói rõ cho mọi người.

Ở thời đại Xuân Thu, Khổng Tử có hai học trò, một vị là Tử Cống, một vị là Tử Lộ. Tử Cống là một thương nhân lớn, thường đi làm ăn ở các nước khác. Nước Lỗ có một điều quy định trong Pháp luật: khi ở nước khác, chỉ cần nhìn thấy người của nước mình bị bán làm nô lệ, nếu có thể chuộc họ về thì tiền chuộc này sẽ được nhà nước hoàn trả. Điều luật này vô cùng tốt, kêu gọi mỗi người dân trong nước đều yêu thương che chở lẫn nhau, giải cứu đồng bào. Khi Tử Cống chuộc người trong nước về, Quan phủ muốn trả lại tiền chuộc cho ông thì Tử Cống không tiếp nhận, hầu hết mọi người đều cảm thấy Tử Cống rất cao thượng, không nhận tiền chuộc. Nhưng Khổng Tử phê bình ông rằng:

– Tử Cống, con làm vậy là sai rồi.

Vì sao lại sai? Vì làm cho người khác phải đắn đo khi chuộc người, bởi vì nếu họ lấy tiền chuộc thì dường như không cao thượng như Tử Cống, nhưng nếu không lấy tiền chuộc thì kinh tế của họ chẳng dư dả gì, cuộc sống sẽ có khó khăn. Lúc họ cứu người thì sẽ do dự, có thể không chuộc được người nước mình về. Người này có thể lại là chủ của một gia đình, một người mà không được cứu, rất có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của một gia đình. Cho nên, Khổng Tử mới nói, cách làm của Tử Cống gây ra ảnh hưởng không tốt về sau. 

Lại có một ngày Tử Lộ đang đi trên đường, nhìn thấy một người bị đuối nước, Tử Lộ vô cùng có lòng chánh nghĩa, lập tức nhảy xuống cứu anh ta lên. Sau khi cứu lên thì trong lòng người bị đuối nước vô cùng biết ơn nên đã tặng con trâu trong nhà cho Tử Lộ, Tử Lộ cũng rất vui vẻ dắt trâu về nhà. Khổng Tử khen ngợi Tử Lộ rằng: “Sau này nước Lỗ sẽ có rất nhiều người dũng cảm giúp đỡ người khác, giải cứu tính mạng của người khác“. Bởi vì biểu hiện của Tử Lộ khiến cho người ta cảm nhận được làm thiện có quả báo thiện. Nhưng người thông thường sẽ nghĩ rằng Tử Cống không tiếp nhận tiền chuộc là chính xác, mà Tử Lộ nhận trâu là không cao thượng như Tử Cống. Khổng Tử quan sát sự việc không chỉ nhìn ở trước mắt mà còn nhìn vào ảnh hưởng về sau, đây gọi là chẳng nhìn nhất thời mà phải nhìn dài lâu, không chỉ nhìn một người mà phải xem ảnh hưởng đến thiên hạ. Cho nên ở trong đúngsai của Thiện, chúng ta cũng phải phân biệt cẩn thận.

Từ chỗ này chúng ta có thể lý giải được phương pháp phân biệt cái gọi là yêu thương mà chẳng phải yêu thương, lễ mà chẳng phải lễ. Yêu thương mà chẳng phải yêu thương, chính là nhìn thấy trưởng bối rất nhân từ với trẻ nhỏ, nhưng sự nhân từ này vừa không có lý trí lại không có trí huệ, là hành vi yêu thương nuông chiều quá mức, cho nên tâm yêu thương con cái như vậy chính là làm việc ác, gọi là “Yêu thái quá, hoá hại con[6]. Từ góc độ này chúng ta có thể xét đến sức ảnh hưởng về sau để đoán định là thiện đúng hay là thiện sai. Sau khi chúng ta biết cách phán đoán thiện ác rồi thì phải tích cực đoạn ác tu thiện, tích luỹ công đức.

Giữ tâm Ái Kính [7]

Giữ tâm chánh thì hành vi nhất định sẽ chánh. Có một bạn nhỏ, một ngày nọ vừa mới thức dậy sau giờ ngủ trưa, một bạn khác đang trực nhật đã rút cái chiếu mà người bạn đang ngái ngủ ra, cậu bé này còn chưa kịp đứng vững, rút như vậy đã làm cho cậu bé ngã sang một bên và đập đầu vào tường, nhìn có vẻ không nghiêm trọng nhưng cũng rất đau, cô giáo cũng đã răn dạy bạn nhỏ rút chiếu. Chiều hôm đó mẹ cậu bé gọi điện thoại đến trường mẫu giáo hỏi:

– Con tôi kêu bị đau đầu, không biết là hôm nay ở trong trường có xảy ra việc gì không ạ?

Lúc này cô giáo mới cảnh giác đến việc cậu bé đụng đầu có chút nghiêm trọng, do đó nhờ mẹ lập tức đưa đi kiểm tra, cũng may là không sao. Hôm sau, cô giáo nói với bạn nhỏ này:

– Khi con bị đụng đầu mà có cảm giác bị đau thì nhất định phải nói với cô, nếu không thì có thể rất nghiêm trọng, không kịp thời cứu chữa thì thân thể sẽ bị thương.

Bạn nhỏ này nói với cô giáo:

– Thưa cô, bạn làm con ngã cũng đã bị cô trách phạt rồi, nếu như con lại đi nói với cô là con bị đau đầu thì bạn ấy lại phải bị trách phạt thêm lần nữa, có thể về nhà lại bị mẹ bạn ấy mắng, cho nên con mới không nói với cô.

Đứa trẻ này mới có năm sáu tuổi mà đã có thể suy nghĩ cho người khác, những thầy cô giáo có mặt lúc đó nghe thấy cũng vô cùng cảm động.

Ái và Kính là một loại nội hoá, khi con trẻ có tâm cung kính thì sẽ làm ra hành vi cung kính, thậm chí còn chưa được hướng dẫn thì chúng cũng làm ra một cách tự nhiên. Có một bạn nhỏ đi qua trước mặt thầy giáo, thấy thầy giáo đang xem video bài giảng, lúc đó liền khom người xuống, khom mình thấp đến mức không ảnh hưởng đến việc xem video của thầy giáo. Chúng tôi nhìn rồi cảm thấy rất an ủi, tồn tâm này của con trẻ chính là khác biệt giữa Phàm và Thánh. Mạnh Tử có nói: “Sở dĩ Quân tử khác với người thường, đó là ở chỗ tồn tâm vậy[8], khác nhau giữa Thánh và Phàm chính là ở một niệm tồn tâm. Mạnh Tử còn nói: “Quân tử lấy nhân từ để tồn tâm, lấy Lễ để tồn tâm” [9], lúc nào cũng nghĩ cho người khác, cung kính đối xử với người, mà “Người nhân từ thì thương yêu người, người có lễ thì cung kính với người. Yêu thương người thì thường được người yêu thương lại; Cung kính người thì thường được người cung kính lại[10]. Nhân từ và cung kính là năng cảm[11], cảnh giới của sở cảm[12] là gì? Có được sự ái kính của mọi người. Chúng ta muốn học tập với những bậc Thánh Hiền, thì phải từ căn bản là tồn tâm và dụng tâm mà bắt đầu, như vậy tốc độ tu học sẽ rất nhanh.

Kính trọng tôn trưởng

Phải cung kính với cha mẹ và trưởng bối, không được mạo phạm; trong nhà như vậy, xí nghiệp đoàn thể cũng lại như vậy. Ông chủ, cấp trên có bất kỳ lỗi lầm nào, chúng ta không được lấy thái độ mạo phạm mà khuyên can, như thế sẽ khiến cho họ rất khó có đường lui. Trước tiên chúng ta phải nên cống hiến nhiều, xây dựng tín nhiệm thật đầy đủ rồi mới đưa ra một số lời can gián thuyết phục. Đợi cho những lời can gián thuyết phục đó thực sự khiến cho họ cảm nhận được có lợi ích to lớn, cũng cảm nhận được bạn rất có trí huệ, tự nhiên họ sẽ xem trọng những lời kiến nghị của bạn. Cho nên sự việc nào cũng phải có thể để “nước chảy thành sông” thì mới tốt.

Chúng ta cũng phải tôn kính những người lãnh đạo đất nước, tuyệt đối không được huỷ báng. “Kinh Phạm Võng” dạy chúng ta: “Không làm giặc quốc gia, không nói xấu lãnh đạo đất nước“. Chúng ta phải nói về những phương diện tốt đẹp của lãnh đạo để cho họ càng hiểu rõ hơn những việc nào đáng nên làm; còn với những chỗ chưa tốt của họ thì chúng ta không được phê bình, bởi vì phê bình đến sau cùng sẽ tạo thành tình hình bất an của toàn bộ xã hội, cho nên phải cẩn thận trong lời nói. Rất nhiều người nói rằng, nếu các nhà lãnh đạo giống Trụ Vương thì phải làm sao? Nếu họ thật sự bạo ngược vô đạo giống Trụ Vương thì sớm muộn gì cũng có một ngày sẽ bị nhân dân lật đổ, “nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền“.

Chúng ta phải hiểu là cách mạng Thương Thang thời cổ đại là cuộc cách mạng sớm nhất trong lịch sử. Trước khi ông đánh dẹp Hạ Kiệt, thật ra ông cũng vô cùng cung kính Hạ Kiệt, ông luôn luôn khuyến cáo Hạ Kiệt nhưng Hạ Kiệt không chịu nghe theo. Thang Vương còn đi tìm một người tên là Y Doãn, là người rất hiền đức, lúc ông đi tìm Y Doãn, ông mang theo rất nhiều vàng bạc châu báu, Y Doãn vẫn như như bất động. Sau nhiều lần thỉnh mời, sự chân thành của ông đã cảm động được Y Doãn, Y Doãn mới đi theo ông. Vì sao Y Doãn lại chịu đi? Chỉ vì Thang Vương đánh giá cao ông chăng? Tuyệt đối không phải vậy, là vì để làm lợi ích cho bá tánh trong thiên hạ. Thang Vương đi tìm Y Doãn không phải là để lật đổ Hạ Kiệt, mà là giới thiệu cho Hạ Kiệt một người hiền đức như Y Doãn, tổng cộng giới thiệu đến chín lần. Sau chín lần, Hạ Kiệt vẫn cứ hoang dâm vô đạo, vì để cứu nhân dân khỏi cảnh lầm than nên Thang Vương mới làm cách mạng. Lúc làm cách mạng còn đối trước Trời cao làm một lễ cúng tế long trọng, hướng lên Trời mà nói rằng: “Ta tuyệt đối là muốn vì dân mà phạt tội“. Sau khi ông đánh bại Hạ Kiệt cũng không giết hại bừa bãi, còn ban cho con cháu của Hạ Kiệt một vùng đất để họ sinh sống ở đó. Lý do mà những Thánh Vương này làm cách mạng, động cơ hoàn toàn đều là vì nhân dân trong thiên hạ, người đời sau liệu có học được như vậy hay không? Rất nhiều người chỉ vì quyền lực, một khi giành được thiên hạ thì sát hại bừa bãi, đó đều chẳng phải là cách làm tốt. Cho nên, đối với người lãnh đạo quốc gia, chúng ta không được phép phê phán, huỷ báng, mà phải khẳng định nhiều, hi vọng họ càng ngày càng tốt.

Cùng người làm thiện

Cùng người làm thiện“, người với người cùng nhau hành thiện, một người hành thiện so với một nhóm người hành thiện, sự cảm nhận đó không giống nhau, nhiều người hành thiện thì có thể tạo nên một bầu không khí thiện lành. Tôi nhớ sau khi tôi thi đậu vào trường Sư phạm, bởi vì trường cách nhà quá xa nên tôi phải ngồi tàu hoả để đi học, bình thường khi tôi đến trường thì các bạn học vẫn chưa đến. Hôm đó là ngày đi học đầu tiên sau khi kết thúc kỳ nghỉ hè, suốt hơn hai tháng không ai đi học nên mỗi bàn học đều phủ một lớp bụi dày. Lúc đó tôi nghĩ, nếu các bạn nữ đến trước chỗ ngồi mà nhìn thấy một lớp bụi dày thì họ sẽ dùng khăn giấy vừa lau bên này, chùi bên kia rồi nhíu mày mà nói: “Ôi bẩn quá đi!”. Đây là cơ hội tốt để tu bố thí vô uý, vì giúp cho các bạn tránh được phiền não. Tôi tìm được một miếng giẻ lau và lau chùi sạch sẽ tất cả bàn học, ghế ngồi. Hơn nữa phải nhanh chóng lau bụi, bởi vì sợ rằng các bạn trong lớp nhìn thấy sẽ xảy ra hiểu lầm, tưởng là tôi cố ý làm cho họ xem. Sau khi lau chùi xong, tôi ngồi xuống rất an tâm. Mặc dù các bạn trong lớp đều không nhìn thấy, xin hỏi vậy thì có sự giao lưu với nhau không? Có! Khi con người có một niệm thiện tâm đối với người khác, thật ra mối quan hệ đó đã được xây dựng rồi. Cho nên, cả năm đó tất cả các bạn trong lớp chúng tôi và tôi đều chung sống với nhau rất tốt, bởi vì thái độ của tôi đã quyết định sự cảm nhận giữa đôi bên. Mỗi ngày tôi đều đến lớp sớm nhất, thu dọn sạch sẽ rác ở phía sau lớp học. Làm cũng được một thời gian thì đến một ngày kia, khi tôi định đi đổ rác thì bạn trong lớp chạy lại nói: “Việc này để bọn mình làm là được rồi“. Trong quá trình chúng tôi làm việc, thật ra cũng sẽ khiến cho các bạn khác trong lớp sinh khởi tâm phục vụ người khác, như thế thì có thể cùng người làm thiện.

Khi tôi học ở trường Đại học Sư Phạm, có một lần học môn “Triết học Giáo dục“, thầy giáo đưa ra mười đề mục, trong đó có một đề mục là “Sắc tức là không, đã được cảnh giới không chưa?“, đối với người không học Phật thì đề mục này có thể ngay cả “không” là gì cũng không biết. Tôi vừa thấy đề mục thật hiếm có này, có thể đàm luận Phật pháp cùng với bốn mươi mấy bạn trong lớp, thật là việc có cầu cũng chẳng chẳng cầu được, lúc này chúng ta phải “gánh vác việc nhân đức thì không nhường” [13] . Tôi có số hiệu là 5, số 5 đến số 8 là cùng một nhóm, Thầy giáo bắt đầu theo thứ tự rút thăm các đề mục cho các nhóm. Tôi nói với bạn nữ bên cạnh: chúng ta nhất định sẽ rút được đề mục “Sắc tức là không, đã được cảnh giới không chưa?”. Kết quả tôi vừa nói xong, thầy giáo nói: Đề mục của nhóm thứ hai là “Sắc tức là không, đã được cảnh giới không chưa?” bạn học nữ đó hết cả hồn. Cho nên, năng cảm là tâm, sở cảm là cảnh giới.

Nhờ cơ hội lần đó mà tôi cũng chuẩn bị được rất nhiều nội dung, hôm đó còn mặc đồ tây thảo luận một tiết Phật pháp. Sau khi thảo luận xong, rất nhiều bạn học chạy đến trước mặt tôi nói:

– Lúc học Đại học tôi có học Phật, nhưng mấy năm rồi không xem sách Phật, hôm nay nghe bạn giảng như vậy, tâm lại sinh hoan hỉ.

Tôi lập tức nói:

– Bạn may mắn hơn tôi quá nhiều rồi, học Đại học mà đã nghe được Phật pháp, phải vô cùng trân quý, không được đánh mất cơ hội này.

Bởi vì gặp được cơ hội giảng thuật Phật pháp lần này nên từ đó rất nhiều đồng học đã kết được pháp duyên với tôi.

Khuyên người làm thiện

“Khuyên người nhất thời thì dùng miệng, khuyên người trăm đời thì dùng sách“, có nhiều Thánh Triết Tiên Hiền đã viết lại trí huệ cuộc đời của họ để cho người đời sau học tập. Dùng lời nói để khuyên bảo người trưởng thành là việc không hề dễ dàng, tôi nhớ hồi học Đại học từng nghe một câu nói: “Người ta sẽ không nghe bạn nói gì, mà chỉ xem bạn làm gì“. Vì sao tôi muốn chọn dạy tiểu học? Bởi vì học sinh tiểu học sẽ nghe những gì bạn nói, người lớn sẽ không như vậy; đối với người lớn thì nhất định phải dùng hành vi, dùng sự nỗ lực thực hành của bản thân để đi khuyên can. Triều nhà Tấn có một vị đại thần tên là Quản Ninh, có một ngày ở trong khu vực ông quản lý, ông nhìn thấy một con bò chạy rông dẫm đạp lung tung trên ruộng nhà người khác, Quản Ninh bèn giữ con bò đó lại, dắt đến một gốc cây rồi ngồi chờ chủ của con bò. Khi người chủ của con bò đến, nhìn thấy Quan lớn đang dắt con bò của mình, trong lòng nghĩ con bò này lại dẫm đạp lung tung lên ruộng nhà người khác rồi,  vì vậy chủ nhân của con bò đã khởi tâm xấu hổ. Loại xử phạt này còn khó chịu hơn so với phạt tiền nên Quản Ninh không cần trách phạt ông. Đây chính là dùng đức hạnh để cảm hoá.

Quản Ninh còn phát hiện ra nơi ông quản lý có rất ít giếng nước, nhân dân thường xuyên xảy ra vấn đề tranh chấp về nước, thậm chí còn thường hay ẩu đả. Lúc xử lý, ông không dùng phương pháp ngăn cấm mà dùng phương tiện vô cùng khéo léo. Ông tự mình mua rất nhiều thùng đựng nước, sau đó sáng sớm ông cùng thuộc hạ của mình múc đổ đầy vào những thùng nước mới này rồi đặt ở xung quanh giếng nước, đợi người dân đến gánh về. Đến khi những người dân vội vàng chạy đến để múc nước, đột nhiên nhìn thấy Quan lớn đã giúp mình lấy đầy nước rồi, những người dân này đã nghĩ rằng: hành vi tranh giành nước của mình trước đây là quá sai rồi, do đó mỗi người đều sinh khởi tâm xấu hổ, từ đó sự việc người dân đánh nhau tranh giành nước đã biến mất. Quản Ninh khuyên người không dùng phương pháp trách mắng mà là lấy thân làm gương, khiến người dân sinh khởi tâm hổ thẹn sâu sắc, cho nên chúng ta dùng thân khuyên bảo cũng có thể thức tỉnh sự giác ngộ của người khác.

Có một anh chồng của một cô kia ăn phải món gì không thích thì nhổ ra hoặc để sang một bên. Cô ấy không nói lời nào, tự mình lấy thức ăn mà chồng mình nhổ ra ăn tiếp; làm lâu rồi thì chồng cô ấy không còn nhổ nữa. Đây cũng là lấy thân khuyên can, lấy đạo đức để cảm hoá người thân.

Thành toàn việc tốt cho người [14]

Ở thời đại này, muốn làm một việc tốt nào đó thật sự không dễ. Tôi đã đi qua không ít địa phương ở Đại Lục, có phải mọi việc đều thuận buồn xuôi gió không? Các bạn có thấy đằng sau nụ cười của tôi là cả một quá trình gian khổ không? Lúc đó một mình tôi tứ cố vô thân, mỗi ngày đều là “đi sớm về khuya[15]. Lần đầu tiên tôi biết được thế nào gọi là đi sớm về khuya, chính là buổi sáng rời khỏi nhà rất sớm, tối muộn lại đạp xe về nhà, lúc nào cũng phải hơn 10 giờ tối, tắm giặt xong xuôi cũng phải qua 12 giờ đêm rồi, sau đó nằm thẳng cẳng ngủ rất ngon. Thông qua kinh nghiệm cùng thể hội như vậy, tôi phát hiện ra rằng nếu người nào bị bệnh mất ngủ, nên dùng phương pháp của tôi, dốc hết sức mà làm việc thì không bị mất ngủ nữa, đây là phương thuốc hay.

 Trong giai đoạn đó thường hay có người đến Trung tâm của chúng tôi nhìn ngang nhìn dọc rồi nói: “Hiện nay làm gì có việc như thế? Giảng dạy không thu tiền, sách cũng không cần tiền, nhất định là có mục đích gì đây“. Họ không tin bởi vì họ chưa từng thấy. Cho nên thường xuyên gặp rất nhiều người chất vấn chúng tôi, nhưng chúng tôi lại rất hoan nghênh họ đến, họ đến rồi thì có thể tiếp xúc để hiểu rõ. Cho nên ở trong thời đại này muốn làm việc tốt cho thật tốt, đúng là không dễ. Khi chúng ta nhìn thấy người khác làm việc thiện thì nhất định phải tận lực mà giúp đỡ cho họ. Dù là chỉ cần một lời nói khen ngợi thôi, tôi tin cũng là một sự cổ vũ với họ. Vì vậy, không được bủn xỉn lời khen của chúng ta, đây chính là thành tựu việc tốt cho người.

Cứu người lúc nguy cấp

Tục ngữ nói: “Ơn huệ chẳng lớn nhỏ, quan trọng lúc nguy nan[16]. Chỉ cần trong lúc người khác nguy cấp mà chúng ta có thể giúp đỡ họ đúng lúc thì họ sẽ cả đời có được lợi ích, biết ơn. Chúng ta cũng phải thường xuyên thấy được nhu cầu của những người bên cạnh và những người thân xung quanh. Đương nhiên việc này cũng phải dùng tâm chân thành và sự quan tâm của chúng ta thì mới có thể nơi nơi phát hiện được nhu cầu của họ. Chúng tôi cũng thường nói đến việc nếu người trong nhà chúng ta bị bệnh ung thư thì chúng ta phải xét lại chính mình. Bởi vì nguyên nhân thật sự của bệnh ung thư chính là ở tâm lý và cảm xúc của con người. Người nhà bị bệnh ung thư, rất có thể là trong mười, mười lăm năm qua bị kìm nén cảm xúc nên mới tạo thành. Trong suốt thời gian dài như thế, chúng ta vẫn không thể phát hiện, không đi khai thông và chăm sóc kịp thời, cho nên chúng ta phải vô cùng nhạy cảm để cảm nhận nhu cầu của người khác.

1. Gặp hung hoá cát phải nương vào trí huệ

Nói thật ra thời đại hiện nay, không chỉ nhà nhà có bộ kinh khó tụng, mà người người cũng có một bộ kinh khó tụng. Nếu trong tâm mỗi người đều vô cùng lo lắng phiền muộn thì có thể là ngay cả bản thân mình còn lo chưa xong, gọi là “Bồ tát bằng đất qua sông, thân mình còn chẳng giữ được“. Sự việc quan trọng nhất của đời người chính là khai trí huệ, không ngừng trưởng thành thì mới có thể lợi mình lợi người. Khi trong gia đình xuất hiện tình huống nguy cấp mà có thể định được tâm xuống để dùng trí huệ xử lý thì mới có thể giải quyết được sự việc, thậm chí là sẽ đạt được sự tin phục và tín nhiệm càng cao của người trong nhà đối với bạn. Chúng ta có trí huệ thì gặp chuyện sẽ không hốt hoảng, bởi vì chúng ta hiểu rõ phàm việc gì đều là có nhân có quả, chỉ cần chúng ta có thể như lý như pháp đi từ nhân của sự việc mà tìm ra nguyên nhân, nhất định sẽ có thể gặp hung hoá cát.

2. Bố thí vô uý được khoẻ mạnh sống lâu

Lúc ông nội tôi bị đột quỵ, tôi không quá hoảng hốt. Bởi vì ông nội tôi cả đời đi bắt cá, hơn nữa lại nổi tiếng nhất về bắt cá ở thị trấn chỗ chúng tôi, cho nên sau khi tôi học Phật thì thường đau đáu lo sợ, như đi bên vực sâu, như bước trên băng mỏng, bởi vì tôi là cháu đích tôn, cũng phải nên chịu trách nhiệm ít nhiều tội nghiệp. Tôi nhớ hồi 26 tuổi, lần đầu tiên đi phóng sinh, đang lúc vừa phóng sinh thì toàn bộ da đầu đều tê mất cảm giác, lúc đó tôi còn chưa thâm nhập Phật pháp nên đã nghĩ: “Lạ thật, đầu mình sao lại bị tê thế này?” Tôi liền hỏi một người bạn ở bên cạnh: “Đầu anh có bị tê không?”, họ nhìn nhìn tôi, không hiểu tôi đang nói gì. Sau này tôi mới cảm ngộ được, đây nhất định là sự gia trì của Phật Bồ Tát: “Con là một tiểu tử không có trí huệ, việc quan trọng như thế mà giờ mới làm, nếu không sớm đi làm thì có thể ngay cả mạng sống cũng chẳng còn“. Lúc đó tôi đang ở nhà cô giáo Dương, cô Dương thấy tôi là tướng đoản mệnh. Đôi khi tôi lái xe về nhà thường bị vừa lái xe vừa ngủ gật, có thể là lúc đó nghiệp chướng hiện tiền, sức mạnh ý chí của tôi cũng không có cách gì khống chế được cơn buồn ngủ. Lúc ngủ gật thì cán bánh xe lên thiết bị cảnh báo nhô ra trên đường cao tốc khiến nó kêu lên, vừa cán lên thì cả người tôi giật bắn mình tỉnh lại, cảm thấy toát mồ hôi lạnh. Lần đó tôi lái xe về, đúng lúc Pháp Sư Đạo Chứng đang làm chủ pháp cho buổi đại lễ phóng sanh toàn Đài Loan, mấy chục chiếc xe tải lớn đồng loạt phóng sanh ở bờ biển Đài Nam. Sau lần tham gia đợt phóng sanh đó thì tôi không thấy hiện tượng đầu bị tê tê mất cảm giác nữa, hơn nữa bệnh ho cũng rất nhanh khỏi. Đúng thật là phóng sanh, bố thí vô uý mới có thể được khỏe mạnh sống lâu, cho nên hành thiện tuyệt đối không được chờ đợi. Ông nội của tôi bị đột quỵ lúc nửa đêm, lập tức được đưa đến bệnh viện để kiểm tra và chữa trị, bệnh đột quỵ của ông là do toàn bộ mạch máu ở vùng mặt đều bị tắc nghẽn. Những trưởng bối của tôi đều rất hiếu thuận, cũng bởi vì hiếu thuận mới làm cho gia phong được gìn giữ không suy bại, nhưng cuộc đời cũng có lúc thăng lúc trầm. Trước đây có một khoảng thời gian ông nội tôi thường hay đau đầu, mọi người tưởng đó là cảm mạo, bởi vì ông nội tôi mấy chục năm đi kiểm tra thì tim đều bình thường, do đó cứ lơ là lướt qua. Đột nhiên khi ông nội bị đột quỵ, tất cả các chú các cô, những người lớn này liền hốt hoảng. Họ hốt hoảng nhưng tôi không được hốt hoảng. Tôi nói với cha tôi:

– Ba phải đưa ngay cho con 5 vạn đồng đài tệ, con phải giúp ông nội đi tu phước, nhưng 5 vạn đài tệ này nhất định phải là tiền của chính ông nội, hơn nữa còn phải được ông nội đồng ý thì con mới đi làm.

Mấy ngày đó tôi đến phòng chăm sóc đặc biệt không phải là để rơi lệ, mà là nhanh chóng thừa dịp lúc ông nội tỉnh táo mà nói với ông:

– Nội ơi, trên khắp thế giới này người khốn cùng rất nhiều, người đáng thương rất nhiều, chúng ta hiện tại có năng lực nên giúp đỡ họ nhiều nhiều một chút.

Ông Nội gật gật đầu, tôi đã được sự đồng ý của ông nên cầm số tiền đó đi phóng sanh, đi làm một số hoạt động cứu nạn mang tính quốc tế. Kết quả làm xong đến ngày thứ năm, ông nội tôi đã được rời khỏi phòng chăm sóc đặc biệt, vốn dĩ bác sĩ nói là không thể cứu được nữa, bất cứ lúc nào cũng phải chờ để lo việc hậu sự. Đây là lần thứ nhất chúng tôi cầu được như lý như pháp.

Sau đó bác sĩ lại nói:

– Người đột quỵ tám mươi mấy tuổi, tuyệt đối không thể nào phục hồi đi lại được.

Trước khi tôi đi Úc Châu, ông nội vẫn đang nằm trên giường bệnh nên tôi thoả thuận với ông:

– Lần tới con về, Nội phải đi lại cho con xem, phải phục hồi thật tốt Nội nhé!

 Sau khi tôi đến Học Viện Úc Châu, đã đem một số tiền lấy danh nghĩa của ông nội để bố thí. Hôm đó bố thí xong, buổi tối gọi điện về nhà thì mẹ nói với tôi:

– Nội của con hôm nay đã đi lại được rồi.

Đương nhiên không đơn giản là bỏ một số tiền bố thí mà đã đi lại được, không được nghĩ như thế, bởi vì chúng duyên hoà hợp, có thể là do nhiều loại nhân tố thành tựu, nhưng chỉ cần chúng ta dùng tâm thiện, tâm chân thật mà làm, cảm ứng tuyệt đối là thật không phải giả. Cho nên khi những người thân của chúng ta gặp phải nguy nan, tuyệt đối không được lo sợ mà phải dùng phương pháp đúng như lý như pháp để hoá giải, phương pháp đúng như lý như pháp chính là chúng ta phải học tập chánh pháp, thâm nhập chánh pháp thật tốt.

3. Xiển dương Hiếu đạo mới có thể cứu người lúc nguy cấp

Khi bạn bè mong muốn bạn giúp đỡ họ, đại đa số đều là rất gấp rút, rất vội vàng. Lúc này tuyệt đối bạn không thể bị cuốn theo cảm xúc của họ, bạn phải ổn định tâm trở lại, đồng thời làm cho tâm của họ tĩnh lặng để cho họ phân tích vấn đề cho rõ ràng. Thật ra khi họ phân tích vấn đề rõ ràng rồi thì sẽ thấu suốt bước đầu tiên nên đi như thế nào. Bước đầu tiên tuyệt đối là phải chính mình phản tỉnh, từ bản thân mình mà tìm ra nguyên nhân, chỉ có từ nguyên nhân mới có thể thiết lập lại được thái độ nhân sinh chính xác, mới có thể xoay chuyển được vận mệnh tương lai. Cho nên, chúng ta cần luôn giữ tâm tình ổn định thì mới có thể kịp thời đánh thức được sự giác ngộ và tỉnh giác của người khác.

Nguy cấp lớn nhất của con người thời nay chính là xung đột giữa người với người, xung đột giữa người với tự nhiên, xung đột giữa người với thiên địa quỷ thần. Căn nguyên của ba loại xung đột này vẫn là ở chỗ xung đột giữa người với người. Yêu thương cha mẹ mình rồi mới yêu thương người dân, yêu thương người dân rồi mới yêu thương vạn vật[17], khi xung đột giữa người với người được giải quyết thì xung đột giữa người và tự nhiên, giữa người và thiên địa quỷ thần cũng được hoá giải. Từ trong sách nhìn thấy các bậc tiền bối khi xưa đều rất hiếu thuận, người hiếu thuận thì có xa xỉ hay không? Nước họ dùng rửa mặt vào sáng sớm còn phải để lại đến tối đi làm về để rửa chân, những tiền bối này vô cùng ái hộ [18] đối với tài nguyên thiên nhiên, bởi vì họ biết rất rõ tài nguyên không thuộc về mình mà thuộc về nhân loại đời đời kiếp kiếp, thậm chí là thuộc về tất cả vạn vật trên địa cầu này.

Ngày nay chúng ta muốn hoá giải tất cả nguy nan, tất nhiên phải bắt đầu từ mối quan hệ giữa người với người; mà trong quan hệ ngũ luân, nhất định phải từ Hiếu đạo mà bắt đầu, Hiếu là nguồn gốc của tâm nhân từ của mỗi người. Khi tôi đọc đến một câu giáo huấn của Khổng Phu Tử trong Hiếu Kinh Hiếu Đạo là căn bản của tất cả Đức hạnh, sự giáo hoá có được đều là từ Hiếu Đạo mà triển khai sinh ra[19], nội tâm vô cùng vui vẻ sung sướng, cũng vô cùng cảm ân. Bởi vì sợ rằng chúng ta chỉ có tâm giúp người mà không có cách để giúp người thì chỉ có thể ở bên cạnh nhìn thấy người ta thống khổ, chính mình cũng rất khó chịu. Chúng ta tìm thấy căn bản của đức hạnh rồi, chính là Hiếu đạo mà thôi. Quân tử chuyên tâm vào căn bản, căn bản lập rồi đạo liền sinh, khi Hiếu đạo có thể rạng rỡ, thì tự nhiên quan hệ giữa người với người dần dần cải thiện, vấn đề giữa người với tự nhiên, người với thiên địa quỷ thần sẽ có thể được giải quyết. Làm thế nào để phát huy rãng rỡ Hiếu đạo, đây chính là việc mà chúng ta phải đi làm ngay không được chậm trễ, như vậy mới có thể cứu người trong lúc nguy cấp.

4. Cứu người nguy cấp, không được chậm trễ chút nào

Trung tâm chúng tôi có một số thầy cô giáo thường nói với tôi:

– Thầy Thái, hình như thầy chẳng có chút gì mệt mỏi, không có chút cảm giác thất vọng nào. Trong quá trình làm những việc hoằng dương văn hoá truyền thống này, Thầy có cảm giác đó không?

Tôi nói với những thầy cô này:

Nếu hôm nay bạn nhìn thấy có một đứa bé bò trên miệng giếng nước, trong nháy mắt có thể sẽ rơi xuống, ý niệm đầu tiên của bạn là gì?

Phải nhanh chóng cứu nó xuống. Khi chúng ta thực sự thấy rõ ràng được vấn đề, đại đa số mọi người giống như đang chơi đùa ở bên miệng giếng nước vậy, trong nháy mắt đều sẽ đoạ vào tam đồ ác đạo, mà đoạ rồi có thể vạn kiếp không trở lại được. Chúng ta hiểu rõ chân tướng này thì không thể nào thấy như không thấy, phải nên tận hết sức lực mà giúp đỡ và hướng dẫn. “Tấm lòng trắc ẩn, ai ai cũng có[20], khi chúng ta thực sự có thái độ gánh vác sứ mệnh này thì có thể tự lợi lợi tha. Khi chúng ta niệm niệm vì đại chúng mà phục vụ, cho dù ngã chấp còn chưa thể đoạn được ngay thì cũng sẽ ở trong quá trình phục vụ người khác mà có thể buông xuống được từng chút, cho nên những phiền não như cảm giác mệt mỏi và thất vọng cũng sẽ nhìn thấu, buông xuống được.

Khi chúng ta nghe thấy một số bậc cha mẹ nói đến việc con cái của họ bất hiếu,  nói trong nước mắt, lúc này chúng ta cũng cảm nhận được sự thống khổ của họ, thậm chí là cũng rơi lệ cùng với họ. Khi chúng ta buông xuống chấp trước thì dần dần sẽ thể hội được giữa người với người đúng là đồng thể tương sanh, sao lại không rơi lệ vì người khác được chứ! “Nỗ lực thực hành sẽ gần với tâm nhân từ[21], khi bạn thực sự đi giúp đỡ người khác, khi bạn cảm thấy đồng cảm thì tâm từ bi vốn có sẽ hiển lộ ra từng chút một. Có vị đồng tu viết một bức thư cho tôi, đề cập đến việc hoá giải tai nạn trong giai đoạn hiện nay, nhất định phải bắt đầu triển khai từ “Đệ Tử Quy”, tâm cảnh của đồng tu chúng ta đều là từ thiên hạ thế giới mà nhìn, khi người như thế này càng ngày càng nhiều thì tuyệt đối có thể xoay chuyển được kiếp nạn của thế giới.

Xả tài làm phước

Chúng ta nhìn thấy người khác có khó khăn về kinh tế thì nên tuỳ phận tuỳ lực mà giúp đỡ, chữ “tài” này cũng chính là năng lực làm việc, cũng là trí huệ. Nếu chúng ta nơi nơi đều có thể làm nhiều việc bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô uý, thì sẽ được quả báo giàu có, trí huệ, khỏe mạnh, cho nên xả tài tự nhiên sẽ có thể được phước.

1. Ngũ phúc lâm môn, phước hoạ theo nhau

Thời xưa thường hay nói đến Ngũ phúc lâm môn[22], nghĩa là năm phước vào cửa, năm phước này cũng đều có được từ trong ba loại bố thí, gọi là có “tuổi thọ“, có “giàu sang“, có “khoẻ mạnh“. Cho dù sống lâu mà không khoẻ mạnh thì có tốt không? Việc này trên căn bản chính là thọ khổ! Chúng ta cũng nhìn thấy rất nhiều người bệnh nằm ở đó chỉ còn lại chút hơi thở, nằm suốt hai mươi, ba mươi năm, đây chính là sống để thọ tội. Phước thứ tư là “Hiếu đức“, tự mình có phước phần nhưng vẫn có thể nhìn thấy nhu cầu của người khác, biết vui làm thiện, ưa bố thí[23]. “Hiếu đức” là phần quan trọng nhất trong năm phước, nếu không có tâm ưa thích làm việc thiện thì có thể sẽ vì có phước mà tạo tác tội nghiệp. Nhà Phật thường nói “tam thế oán” [24], đời thứ nhất tu phước, đời thứ hai là hưởng phước, người hiện nay là đang ở đời nào? Đại đa số là ở đời thứ hai, đúng là mấy nghìn năm lịch sử từ khi có nhân loại đến nay, chưa từng có thời đại nào con người có phước báo như thế. Hoàng Đế ăn uống có ngon không? Rất ngon! Chúng ta hiện nay có kém nhiều so với Hoàng Đế không? Bạn nhìn xem ở trong nhà hàng ăn uống, một bữa ăn hết bao nhiêu tiền? Phước báo này có thể cũng chẳng kém xa lắm so với Hoàng Đế, Hoàng Đế cũng chưa từng ngồi xe hơi, cũng chưa từng ngồi máy bay. Hiện nay con người hưởng phước báo lớn thế này, thật ra là hoạ phước đi cùng nhau, cho nên phải biết tiếc phước.

Tôi thường nói với cha tôi: “Mệnh của ba rất tốt, mệnh của con không được tốt“, hầu hết mọi người đều cảm nhận được: “Mệnh của mình không tốt, mệnh nguời khác tốt”, nhưng chúng ta tỉ mỉ mà quan sát, thế hệ cha tôi bởi do cái khổ bức bách mà phải lao động, cho nên thân thể khoẻ mạnh, mà đời người quan trọng nhất chính là thân thể cường tráng, trong tâm tự nhiên vui sướng. Lại nữa, bởi nguyên nhân khốn khổ nên niệm niệm đều nghĩ tới phải báo đáp ân đức của cha mẹ, phải hiếu dưỡng cha mẹ, phải yêu thương đùm bọc anh em bạn bè, niệm niệm đều là thiện tâm, cho nên tuổi xế chiều quả báo thù thắng. Thế hệ chúng tôi từ nhỏ đã được nuông chiều thành thói rồi, cho nên thân thể đều rất gầy yếu. Bởi vì sống trong nhung lụa nên rất nhiều năng lực làm người làm việc đều không nắm được, khởi tâm động niệm là tự tư tự lợi, đều phá hết phước phần rồi, chúng tôi đến tuổi xế chiều chắc phải chịu sầu khổ rồi. Cho nên, chúng ta thân đang ở trong phước thì phải có tính cảnh giác cao độ, đó gọi là Thân này đời nay chẳng gắng độ, lại đợi kiếp nào độ lấy thân?[25]. Sư Trưởng cũng thường dạy dỗ chúng ta, một đời này không vãng sanh, chết rồi sẽ rất nguy hiểm! Phật nói oán đời thứ ba, đời thứ ba sẽ bị đoạ lạc. Từ đây chúng ta cũng hiểu rõ: để con cái có được phước phần lớn nhất tuyệt đối không phải là tiền bạc mà là tấm gương đức hạnh của chúng ta. Đức mới là gốc rễ của vạn phước, người có đức thì phước đó mới có thể liên tục không gián đoạn.

Tiên sinh Tư Mã Quang đã từng nói một câu: “Để vàng bạc cho con cháu, con cháu chưa chắc giữ được“, người xưa tạo ra chữ viết, thật sự là thông qua văn tự mà khai quang cho chúng ta. Khai quang là gì? Có phải là có người sờ vào đầu bạn mấy cái là khai quang rồi không? Quang là trí huệ, khi bạn nhìn thấy chữ viết, chỉ cần bạn vừa nhìn thấy thì có thể lĩnh hội được đạo lý ở trong đó, đây gọi là khai quang. Chữ Hán nói với chúng ta, tiền (錢) sẽ có những nguy hiểm gì? Hai cái mác (戈) (cái dao) chồng lên nhau, ắt sẽ khởi lên tranh đoạt. Cho nên, chỉ cần là tụ tài thì gia đình sẽ có thể không được vui vẻ hoà ái, ngày ngày nghĩ đến phải phân chia thế nào; giữa quốc gia với quốc gia nếu như xem trọng tài phú thì có thể sẽ xảy ra chiến tranh. Chữ Hán vô cùng có giá trị, chúng ta cũng từ trong đó thể hội được trí huệ và ân trạch của tổ tiên xưa.

Phước thứ năm là “thiện chung“, chính là chết được an lành. Các vị có chắc chắn chết được an lành không? Cho nên lúc bình thường thì chúng ta phải chuẩn bị cho lúc lâm chung, mỗi khi nằm xuống ngủ thì xem như sắp vãng sanh rồi, sẽ phải niệm Phật thật tốt. Thời thời niệm cái chết, mới chết được an lành. Tổ sư Ấn Quang, ở trong Niệm Phật Đường của Ngài có dán một chữ “Tử” (死) rất lớn. Người chân thật thời thời niệm “Thế gian vô thường, quốc độ mong manh” thì mới có thể “thiện chung“.

Hộ trì chánh pháp

Vì có chánh pháp nên con người mới có thể phán đoán được đúng sai, thiện ác, tốt xấu, mới có thể không tạo tác tội nghiệp, không xảy ra cảnh nhà tan người mất, chậm chí là mất nước. Nhà Nho cũng nói đến: Trời không sinh Khổng Tử, vạn cổ như đêm dài[26]. Cho nên chúng ta phải hộ trì chánh pháp, thỉnh chuyển pháp luân.

1. Hộ trì chánh pháp, không ta thì ai.

Thỉnh ai trụ thế? Thỉnh chính mình. Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó nghe nay đã nghe, chính giữa đất nước khó sinh nay cũng đã sinh, những điều kiện tốt như thế mà chúng ta đều đồng thời có đủ, vậy thì hộ trì chánh pháp, không ta thì ai. “Đỉnh cao từ thấp mà lên, Đường xa cất bước từ ngay chỗ gần[27], chúng ta hộ trì chánh pháp chính là phải từ thực hiện “Đệ Tử Quy”, lấy đây làm bước đi bước đầu tiên tiến về phía trước.

Trong sách “Đại Học” có một câu giáo huấn vô cùng quan trọng, chỉ cần chúng ta đều quay về từ điểm này mà tiến hành suy xét thì rất nhiều sự việc sẽ nhất định có thể dần dần được thúc đẩy thành công. Câu giáo huấn này chính là “Từ Thiên Tử cho đến tận dân thường, đều phải lấy tu thân làm gốc” [28]. Gốc rễ đó chính là tu thân. Do đó có thể biết, tu thân rồi mới là tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, là đại căn đại bổn của việc hộ trì chánh pháp. Nền tảng của tu thân chính là “Đệ Tử Quy”, cho nên chúng ta phải tận tâm tận lực thực hành “Đệ Tử Quy”, như vậy mới có thể “Đọc tụng thọ trì, vì người diễn nói“. “Diễn” làm trước, “Nói” làm sau, khi “diễn” không tốt mà đi “nói” thì sẽ xuất hiện tình huống gì? Có thể sẽ bị hiệu quả ngược lại. Người thân chúng ta có thể sẽ nói: “Bản thân anh còn chẳng làm được còn nói tôi, đúng là chó chê mèo lắm lông“, khi người thân của bạn cho rằng như vậy thì chúng ta phải cần tu nhẫn nhục, phải nhanh chóng phản tỉnh, tuyệt đối không được có tâm sân khuể, nếu không thì sẽ đoạn pháp thân huệ mạng của người ta.

2. Hộ trì chánh pháp, dạy học làm đầu

Dựng nước quản dân, dạy học làm đầu” [29] . Muốn hộ trì Chánh pháp thì trước hết phải từ chính mình, trước hết bắt đầu thực hiện từ gia đình mình, xây dựng một gia đình cũng phải lấy dạy học làm đầu. Chúng ta bắt đầu từ bây giờ thì phải thúc đẩy phong khí học tập của gia đình, đều phải noi theo Thánh Hiền, như vậy phong khí đạo đức gia đình mới có thể xây dựng một cách tự nhiên. Chúng ta còn phải đưa phong khí học tập của gia đình vào trong công ty, nếu chúng ta là quản lý hoặc là ông chủ của công ty, lại càng phải lấy thân làm gương. Chúng ta hiểu rõ vì người thời nay mất đi giáo dục Thánh hiền nên tư tưởng và quan niệm của họ đều tương đối phức tạp, phần lớn đều là tuỳ thuận phiền não, trong tâm không có tiêu chuẩn và quy củ làm người. Trong đoàn thể trước hết phải xem trọng “Kiến hoà đồng giải“, mà để xây dựng tri kiến đó tuyệt đối phải thông qua sự huân tập lâu dài mới được. Khi chúng ta đã có những nhận thức như vậy thì ở công ty mỗi ngày nhất định cũng phải có thời khoá nghe giảng, tuyệt đối không được gián đoạn; một khi gián đoạn thì tư tưởng quan niệm của đoàn thể sẽ thành một mớ hỗn loạn. Thân làm người quản lý thì tuyệt đối không thể nói: “Nào, mọi người hãy ngồi yên, tập trung nghe giảng nhé, tôi đi ra ngoài trước!” Làm vậy có hiệu quả không? Đảm bảo là trong lòng nhân viên không phục, bằng mặt chẳng bằng lòng, cho nên chúng ta phải dẫn đầu làm gương.

Khi các thầy giáo khác ở trung tâm chúng tôi giảng bài, không những tôi phải ngồi ở dưới nghe giảng mà còn phải ghi chép. Tại sao vậy? Bởi vì tôi thường hay phải giảng bài, đến lúc lên giảng bị “bí” thì nguy! Cho nên tôi phải nghiêm túc hơn cả họ, trưởng thành cùng họ trong việc dạy và học, cũng bởi vì tôi có thái độ học tập nên mới sinh ra vòng tuần hoàn tốt đẹp. Tôi nói với các thầy giáo của chúng tôi rằng: “Sư trưởng một ngày giảng bốn giờ đồng hồ, chúng ta không thể kém hơn bốn giờ được“, cho nên lần này chúng tôi giảng bài là mỗi ngày giảng sáu giờ, đây cũng là khảo nghiệm bản thân. Nói ra thì cũng thật mất mặt, tuổi tôi chỉ bằng ba phần tám tuổi của Sư Trưởng, thế mà Sư Trưởng thường xuyên đến hơn mười đêm mà tinh thần vẫn rất tốt, trong khi chúng tôi căng cứng hết cả. Nhưng “chớ tự chê, đừng tự bỏ; Thánh và Hiền, dần làm được[30], bây giờ chúng ta cần nhanh chóng tu bố thí vô uý, sau này thân thể sẽ cũng dần dần chuyển biến tốt, nếu như không có thân thể khoẻ mạnh thì chúng ta lấy gì để mà hộ trì chánh pháp?

Có một lần tôi đến Sán Đầu để giảng bài, có 400 giáo viên đến nghe tôi giảng, những thầy cô giáo này phần lớn đều là Thầy cô giáo ở tuyến đầu, trạng thái học tập của họ vô cùng tốt. Chúng tôi cũng cảm nhận sâu sắc được các thầy cô không phải là không muốn dạy tốt học sinh mà là không biết dùng phương pháp nào. Sau khi tôi giảng xong, rất nhiều thầy cô giáo đều lên bục nói lên cảm nghĩ, trong đó có một thầy giáo nói:

– Hôm nay tôi mới biết gốc của Đức hạnh là Hiếu đạo, giáo dục phải bắt đầu làm từ Hiếu, phải bắt đầu làm từ “Đệ Tử Quy”, phải bắt đầu làm từ chính mình.

Thầy ấy còn đem khoá trình mấy ngày làm ra một kết luận. Phong khí học tập ở Sán Đầu rất thịnh nên chúng tôi đã cử các Thầy cô đến ở đó lâu dài để bồi dưỡng cho giáo viên. Tôi biết tại sao phong khí học tập ở Sán Đầu lại hưng thịnh, bởi vì người Sán Đầu đặc biệt xem trọng Hiếu đạo. Lần đầu tiên chúng tôi tổ chức khoá bồi dưỡng trong 5 ngày ở Hải Khẩu, ông chủ và bà chủ của nhà trọ nơi chúng tôi ở là người Sán Đầu, họ cũng rất có tâm Hiếu, tâm Thiện.

3. Đứng trên bổn phận mà làm ra tấm gương tốt

Hộ trì chánh pháp, ở trong công ty cũng có thể dẫn dắt học tập chánh pháp, làm việc có thể chuyên nhất thì từ một sẽ có thể biến thành nhiều. Sư Trưởng dạy chúng ta, không luận là đang làm nghề nghiệp gì đều có thể hành Bồ Tát đạo. Bây giờ đang ở trong nghề luật thì làm luật sư tốt, khiến cho tất cả đồng nghiệp đều học tập theo, đây chính là Bồ Tát. Hôm nay chúng ta ở trong giới doanh nghiệp thì cần phải làm mô phạm cho giới doanh nghiệp, có thể nơi nơi báo đáp cho xã hội, nơi nơi xem trọng phúc lợi của nhân viên, khiến cho càng nhiều đồng nghiệp đứng lên noi theo.

Chúng ta thường dạy dỗ con trẻ từ nhỏ phải lập chí lớn, thậm chí có thể vào buổi tối lúc trẻ nhỏ đi ngủ, chúng ta đứng trước mặt chúng mà nói: “Con phải làm một Phạm Trọng Yêm thời hiện đại!”, nghe nói kiểu này rất có hiệu quả. Bởi vì có người đã làm thực nghiệm, con gái của anh ta bị bệnh, anh liền ở trên đầu giường nói với cô con gái: “Thân thể vốn dĩ là giả, thân thể đều là giả, thì bệnh sao có thể là thật!”. Liên tục câu thông với con gái, kết quả đến ngày hôm sau thì tự nhiên con gái không còn ho hen nữa. Nhưng mà phương pháp này không thể đảm bảo đều có tác dụng cho tất cả mọi người, còn phải xem thành tâm và ý niệm của mỗi người, thậm chí là trong gia đình có người đang làm công đức bố thí vô uý hay không nữa.

4. Học quý ở nỗ lực thực hành, tâm lắng xuống mới an lạc.

Giáo huấn của “Đệ Tử Quy” quý ở nỗ lực thực hành chứ không phải là để treo cao trên kệ sách. Chúng ta nhất định phải áp dụng được từng câu kinh văn trong “Đệ Tử Quy” vào trong đời sống, công việc, xử sự đối người tiếp vật. Sư Trưởng cũng thường hay nói rằng, những câu kinh được lặp đi lặp lại nhiều lần trong kinh điển chính là khai thị quan trọng nhất của Đức Phật, mà lời dạy chân thành khẩn thiết của Sư Trưởng cũng chính là trọng điểm để cho chúng ta vào đạo thẳng tắp nhất. Một người bước vào cửa Phật pháp, trước tiên phải làm được điều gì? Buông xuống tự tư tự lợi, buông xuống danh văn lợi dưỡng, buông xuống ngũ dục lục trần, buông xuống tham sân si mạn. “Buông xuống” thật sự là một việc rất nhẹ nhõm, rất vui sướng.

Khi chúng ta khởi tham sân si mạn thì trong tâm có vui sướng không? Khổ não vô cùng! Đây là nhận giặc làm cha, nhận những tên giặc phiền não này làm cha mình mà tiếp đãi. Một khi chúng ta thực sự hiểu rõ phiền não là giặc, thì liệu còn tiếp tục nhận phiền não làm cha mình để phụng dưỡng không? Không thể nào! Trong chớp mắt bạn cũng chẳng muốn gặp chúng nữa. Cũng giống như một người cõng một túi rác, cõng suốt ba mươi năm, đột nhiên có một người đứng bên cạnh nói với anh ta:

Người anh em, anh đang cõng mấy cái đồ rác rưởi này, còn không nhanh chóng buông xuống?

Anh ta liền nói:

– Đúng là rác rưởi thật!

Thế nhưng anh ta đột nhiên lại nghĩ: “Nhưng mà chúng đã đi cùng tôi suốt ba mươi năm nên cũng có cảm tình, tôi chẳng nỡ buông xuống“.

Đó gọi là biết khó mà hành dễ, nếu thực sự biết rõ là giặc, thực sự hiểu rõ là rác rưởi thì không có ai muốn giữ lại một phút một giây nào cả, đều là mong vứt bỏ đi ngay lập tức. Quyết tâm như vậy thì phải thông qua huân tập liên tục, phải thông qua nhắc nhở thường xuyên của đồng tham đạo hữu.

 Hưng kiến đại lợi – Xây dựng kiến thiết, làm điều lợi ích lớn cho nhân dân

Chỉ cần là việc có lợi ích đối với người thì chúng ta đều phải tận tâm tận lực đi làm. Thời đại này làm thành công việc tốt thì không dễ, cho nên khi chúng ta nhìn thấy người có tâm đang gánh vác công việc thì chúng ta phải tuỳ hỉ công đức, đây đều là hưng kiến đại lợi. Chúng ta nhìn thấy thời xưa rất nhiều người thiện đều mong muốn làm cầu sửa đường, đây đều là lợi ích cho ngàn vạn người dân. Khi chúng ta đi trên đường, đột nhiên nhìn thấy giữa đường có một tảng đá thì chúng ta nghĩ đến điều gì? Ban ngày có thể nhìn thấy, đến đêm không có đèn đường sẽ rất khó nhìn kỹ, rất có thể có người đang mải gọi điện thoại, đột nhiên đâm phải tảng đá này mà bị ngã nhoài. Cho nên, chúng ta phải mọi nơi đều vì người mà suy nghĩ, mọi nơi đều giúp cho người thuận tiện, khi chúng ta nhìn thấy thì phải nhanh chóng di chuyển viên đá từ giữa đường đi chỗ khác, giúp cho mọi người đi lại thuận tiện. Thỉnh thoảng tôi đi ngang qua các công trường xây dựng, nhìn thấy trên công trường có mấy cây sào vừa dài lại vừa nhọn, đều để cả đống chĩa ra hướng người đi trên đường. Nếu có người đi trên đường mà không để ý, rất có thể sẽ bị những cây sào tre này đâm bị thương, thế thì vô cùng nguy hiểm. Chúng tôi liền tìm miếng vải có màu sắc buộc lên đầu những cây sào tre đó, cảnh báo cho những người đi qua chú ý, như thế mới không đến nỗi xảy ra nguy hiểm.

Tôi đã từng xem một chương trình quảng cáo công ích trên truyền hình, có một người đạp xe đạp thì nhìn thấy giữa đường có một tảng đá, trong lòng nghĩ việc không liên quan đến mình, cho nên không chuyển nó đi; nhưng lúc vừa đi qua tảng đá lại nghĩ: phía sau nhỡ có ai đi xe máy tốc độ cao, có thể sẽ bị va vào tảng đá mà bị thương. Người đi xe đạp này trong đầu nghĩ như thế rồi lập tức quay lại di chuyển tảng đá đi, hành vi này chính là vô lượng công đức. Nếu người lái xe kia là chủ của một gia đình, anh ta không tránh khỏi kiếp nạn này thì sẽ gây ra sự hối tiếc cả đời cho cả một gia đình. Cho nên chúng ta nơi nơi vì người mà suy nghĩ thì chính là hưng kiến đại lợi. Lợi ích cho người khác có ngắn tạm, có lâu dài, lợi ích thực sự lâu dài thì chắc chắn phải làm sao cho đại chúng có tư tưởng và quan niệm chính xác.

 Thương tiếc sinh mạng của loài vật [31]

 Tất cả các loài ngọ nguậy, bò, bay, động đậy, tất cả các động vật đều có tri giác, không được làm hại, làm tổn thương đến chúng. Khi chúng ta có tâm nhân từ này thì có thể làm được mọi lúc đều tôn kính động vật.

1. Tôn trọng sinh mạng, trưởng dưỡng thiện căn

Thương chuột đói thường chừa cơm lại, xót thiêu thân chẳng đốt đèn lên[32]. Trong nhận thức Phật pháp, sinh mạng của chuột và thiêu thân là bình đẳng với sinh mạng của loài người, cho nên chúng ta phải tôn trọng chúng. Ví dụ như “xót thiêu thân chẳng đốt đèn lên“, bởi vì loài thiêu thân lúc chiều tối thích ánh sáng, thiêu thân vừa nhìn thấy ánh đèn liền bay đến ngay, nếu như nhiệt độ của đèn quá cao thì sẽ làm thương hại đến chúng. “Văn Xương Đế Quân âm chất văn” có nói: “Cất bước thường xem trùng kiến, cấm lửa ngăn cháy núi rừng[33], đây đều là phải chú ý xem xét từng chút từng chút một ở trên ngôn hành cử chỉ, không được làm hại đến những sinh mạng yếu đuối.

Có một người thường đi lên núi, anh ấy có một động tác, chúng tôi nhìn thấy rất cảm động. Trong quá trình leo núi thì có một con nhện bò trên đường dành cho người đi bộ, anh đã nói với các bạn nhỏ khác rằng:

– Chúng ta đi leo núi chính là khách, những động vật ở đây là chủ nhân, đây chính nhà của nhện, chúng ta không được phá hoại gia đình của chúng, cho nên phải đi vòng qua.

Từ khi còn nhỏ con trẻ càng có thể tôn trọng những sinh mạng yếu đuối này thì càng trưởng dưỡng được thiện căn cho chúng.

2. Đại bàng biết về mớm cho mẹ, loài vật với ta là đồng tâm.

Chúng ta cũng phải khéo học tập sự hiếu hạnh của động vật, như con quạ còn biết quay về mớm cho mẹ, hiếu dưỡng cha mẹ. Có một người đi săn, một ngày nọ ông ta đang ngắm bắn một con đại bàng, lúc chuẩn bị bắn thì đột nhiên phát hiện: mặc dù con đại bàng này lấy được một số thức ăn nhưng nó không ăn. Người đi săn rất kinh ngạc: Tại sao nó không ăn? Con đại bàng lại bay đi mất, người đi săn lại ở đó chờ con đại bàng về tổ. Sau đó lúc con đại bàng bay về, nó còn mang theo một con đại bàng còn lớn tuổi hơn, vừa nhìn thì biết đó là mẹ của nó, con đại bàng này ngậm lấy thức ăn, mớm từng miếng từng miếng thức ăn cho mẹ của nó. Người thợ săn này vốn dĩ là định bắn nó nhưng khi nhìn thấy cảnh tượng này thì bản thân ông ấy bị cảm động sâu sắc, từ đó ông cũng buông cây súng săn xuống. Đối với động vật, chúng ta phải tôn kính, quan trọng hơn là tất cả sinh vật ở trên địa cầu đều là vui buồn cùng nhau, không nên sát hại lẫn nhau, phải nên cùng chung sống cùng phát triển. Buổi sáng chúng ta thức dậy nhìn thấy rất nhiều chú chim nhỏ đang mổ thức ăn, ở đó hót líu lo, trong tâm chúng ta cũng cảm giác vui sướng vô cùng.

3. Yêu tiếc đồ vật, trân quý tài nguyên

Ngoài việc yêu tiếc sinh mạng thì cũng phải yêu tiếc đồ vật. Tàn hại tài nguyên thiên nhiên, lãng phí thức ăn, so với tội sát sinh thì không hai không khác. Bởi vì chúng ta lãng phí tài nguyên thì sẽ làm cho nhân loại trong tương lai bị tổn hại lâu dài, việc này sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của họ, thậm chí là sinh mạng của họ. Khi chúng ta làm ô nhiễm nguồn nước, xin hỏi tội nghiệp này nặng bao nhiêu? Rất nặng! Có một số công xưởng lợi dụng lúc người ta không để ý để đổ nước thải ra sông ra biển, một khi nước đã bị ô nhiễm mà muốn làm cho chúng trong sạch trở lại thì không biết phải tốn thời gian và tiền bạc gấp mấy chục lần, mấy trăm lần. Người chủ công xưởng có thể đều đã từng học giáo dục tiểu học, nếu trong lúc giáo dục tiểu học chúng ta có thể nói với các em những tiêu chuẩn làm người, đạo đức làm người thì sau này khi phước báo của các em hiện tiền, các em sẽ không làm ra những hành vi như thế.

4. Tâm hạnh từ bi trước tiên do dạy mà ra.

 Tôi thường chia sẻ với rất nhiều thầy cô giáo:

– Chúng ta phải lo tính đến lúc tuổi già, nếu chúng ta không nghiêm túc dạy học thì thiên hạ trong tương lai giao lại cho những học sinh này ở hiện tại, chúng tuyệt chẳng có chút tâm nhân từ với người, đến một ngày khi nắm quyền lực trong tay, chúng nhất định sẽ nói: đừng quan tâm đến những lão già này, để cho họ tự sinh tự diệt.

Cho nên, chúng ta là người làm thầy cô giáo, người làm trưởng bối, nhất định phải bồi dưỡng thật tốt tâm nhân từ cho con trẻ từ khi nhỏ thì tuổi về già của chúng ta mới hạnh phúc. Thật ra toàn bộ nhân loại đích thực là nhổ một sợi tóc mà động toàn thân, nhân loại cùng chung vui buồn. Trong thời đại này, bất kỳ nơi nào đó bất an, chúng ta cũng phải có trách nhiệm tận lực đi giúp đỡ, thái độ này rất quan trọng, bởi vì địa cầu đã biến thành một cái làng rồi, chúng ta phải chung sống hoà mục, đối xử bình đẳng. Đối với việc trân quý đồ vật cũng phải dạy bảo con trẻ từ lúc nhỏ. “Chu Tử Trị Gia Cách Ngôn” có dạy: “Một bát cháo một chén cơm, phải nghĩ rằng không dễ gì mà có được; nửa sợi tơ nửa sợi chỉ, phải thường nghĩ làm ra được những thứ này rất gian nan“.

Chúng ta hỏi trẻ nhỏ rằng:

– Gạo từ đâu mà đến?

Chúng trả lời:

– Từ trong nhà bếp ạ

Gạo ở trong nhà bếp từ đâu mà đến?

Ba mẹ mua ạ!

Ba, mẹ mua từ đâu?

Mua từ siêu thị ạ!

Gạo trong siêu thị từ đâu mà đến?

Trước tiên phải cảm ơn sự cày cấy cần cù khổ nhọc của bác nông dân, còn có rất nhiều người hỗ trợ, vận chuyển trong cả quá trình này, sau đó cha mẹ còn phải khó nhọc đi làm để kiếm tiền mới có thể mua được những hạt gạo này. Cứ tra xét ngọn nguồn như vậy thì chúng mới biết: một hạt cơm khi ăn trong miệng là do bao nhiêu người đã làm ra, bao nhiêu người đã tâm huyết mới có thể có được kết quả như vậy. Chúng ta dẫn dắt các em nhỏ hiểu về vấn đề này, chính là cần làm cho các em cảm nhận được rằng xã hội này đúng là một thể hỗ trợ lẫn nhau.

Nếu cha mẹ biết cách giáo dục thì sẽ tìm kiếm một số cơ hội để đưa con trẻ ra ngoài, để cho chúng đi thể nghiệm sự lao động khổ nhọc của người nông dân, bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Không chỉ mồ hôi chảy thấm đẫm lưng áo mà còn phải chờ đợi dai dẳng mấy tháng trời mới có thể thu hoạch. Khi con trẻ có thể tự mình cảm nhận trong môi trường như vậy thì chúng mới có thể cảm nhận được ý nghĩa thực sự của bài ca dao bất hủ của người xưa:

Cày đồng đang buổi ban trưa,

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.

Ai ơi bưng bát cơm đầy,

Giẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

Khi con trẻ có thể chuẩn bị được thái độ như vậy thì hằng ngày khi ăn cơm, từ trong tâm chúng sẽ có thể cảm ân sự lao động cần cù khổ nhọc của người nông dân, cho đến sự cống hiến của tất cả người lao động. Chúng dùng loại tâm cảm ân này để ăn cơm, yêu tiếc đồ ăn thì tin rằng chúng có thể đạt được sự kết nối thông tin giữa người và vật, kết tinh của bát cơm này sẽ trở nên vô cùng tốt đẹp, đương nhiên ăn vào cũng sẽ lợi ích cho thân thể.

5. Sự cảnh báo của quẻ Tiết trong Kinh Dịch

“Cần là nguồn gốc giàu sang, Kiệm là căn bản giữ gìn gia phong” [34]. Một gia đình muốn duy trì được tốt, nhất định phải tiết kiệm, đương nhiên làm giàu thì nhất định phải lao động cần cù khổ nhọc, tuyệt đối không có bữa trưa nào miễn phí. Trong “Kinh dịch” có một quẻ gọi là “Quẻ Tiết” , những vạch bát quái (hào) ở trong “quẻ Tiết” có nói:tiết kiệm mà vẫn ngọt ngào: tốt lành; tiết kiệm mà vẫn an tâm: thuận lợi; tiết kiệm mà trong lòng khó chịu: bói thấy điềm dữ, sửa đổi thì sẽ hết” [35]. Thái độ tiết kiệm cũng có cảnh giới không giống nhau, mặc dù cuộc sống của chúng ta vô cùng tiết kiệm nhưng vẫn cảm nhận được ngọt ngào như mật thì đó là đại cát. Song song với việc chúng ta tiết kiệm, còn phải nghĩ đến việc làm tấm gương cho con cái, nghĩ đến việc khi chúng ta tiết kiệm được thì sẽ có thể giúp cho càng nhiều người không đến nỗi phải chết đói. Chúng ta dùng tâm cảnh như vậy mà tiết kiệm thì sẽ cảm thấy vô cùng sung sướng. Khi chúng ta xem nhẹ vật chất và xem trọng đời sống tinh thần thì nhu cầu vật chất của bạn tự nhiên sẽ dần dần giảm xuống. Chúng ta cũng đừng lập tức yêu cầu người thân giảm sự hưởng thụ ăn uống xuống mức thấp nhất, như vậy họ sẽ sinh ra phiền não. Đạo pháp tự nhiên mới tốt, đợi đến khi họ có pháp hỉ sung mãn thì tự nhiên sẽ dần dần buông xuống dục vọng. Vào thời đại Xuân Thu, Khổng Phu Tử vô cùng khen ngợi học trò của Ngài là Nhan Uyên, nói rằng Nhan Uyên có thể “Một giỏ cơm, một bầu nước, ở ngõ hẹp, người chẳng kham nổi cái khổ đó, Hồi cũng chẳng đổi niềm vui kia“, cảnh giới này chỉ có khế nhập mới có thể cảm nhận được, Nhan Uyên có thể tiết kiệm mà vẫn ngọt ngào, cho nên ông mới có thể cảm nhận được niềm vui ở trong đó.

An tiết” (tiết kiệm mà vẫn an tâm): trong khi trải qua đời sống tiết kiệm mà vẫn có thể lý đắc tâm an, không có cảm giác quá miễn cưỡng, có thể duy trì thái độ như thế thì sẽ “hanh” (hanh thông, thuận lợi), “hanh” tức là cuộc sống, gia đình thuận lợi mĩ mãn. Nếu khi tiết kiệm mà cảm giác rất khổ sở không thể chịu đựng được thì họ sẽ đi hưởng thụ phung phí, cho nên “tiết kiệm mà trong lòng khó chịu, thì bói thấy điềm dữ”. Khi bạn nhìn thấy một đôi vợ chồng rất xa xỉ phung phí tiền của thì có thể đoán định được kết cục của gia đình họ, người có trí huệ thì có thể nhìn thấy được. Người xưa vô cùng trí huệ, họ nhìn nhất cử nhất động của một người thì có thể đoán được cát hung trong cả đời người đó, điều này đúng là chân thật không giả.

Cùng lúc chúng ta tiết giảm tiết kiệm thì cũng là lúc chúng ta đoạn được tâm tham. Khi chúng ta làm việc thiện, không những chỉ có lợi ích cho người khác mà còn trực tiếp lợi ích đến chính mình, thành tựu đạo nghiệp của chính mình, thành tựu pháp thân huệ mạng của chính mình. Khi chúng ta có thể nơi nơi yêu tiếc vật mạng thì sẽ không tăng thêm việc làm tổn thương, sẽ không sân hận; khi chúng ta xả tài làm phước, thực sự chịu “xả” thì sẽ có thể xả được xan tham từ vô thuỷ kiếp đến nay của chúng ta, lợi người nhất định lợi mình.

[1] Tồn tâm: là chủ tâm của một người, là điều giữ ở trong tâm.

[2]  Nhất chân nhất thiết chân 一真一切真

[3] Tâm hiếu ác: tâm thích làm việc ác

[4]  Giao thiển bất ngôn thâm「交淺不言深」

[5]  Khả dữ ngôn, nhi bất dữ chi ngôn「可與言,而不與之言」

[6]  Ái chi túc dĩ hại chi 「愛之足以害之」

[7]  Ái kính tồn tâm 愛敬存心

[8]  Quân tử sở dĩ dị ư nhân giả, dĩ kì tồn tâm dã 「君子所以異於人者,以其存心也」

[9]  Quân tử dĩ nhân tồn tâm, dĩ lễ tồn tâm 「君子以仁存心,以禮存心」

[10]  Nhân giả ái nhân, hữu lễ giả kính nhân. Ái nhân giả, nhân hằng ái chi; kính nhân giả, nhân hằng kính chi 「仁者者愛人,有禮者敬人。愛人者,人恆愛之;敬人者,人恆敬之」

[11] Năng cảm: từ bên trong tâm xuất phát ra

[12] Sở cảm: chỉ cho môi trường bên ngoài thay đổi, cảm ứng được theo “năng cảm”.

[13]  Đương nhân bất nhượng – 當仁不讓

[14]  Thành nhân chi mỹ 成人之美

[15]  Phi tinh tải nguyệt (披星載月)

[16]  Huệ bất tại đại, tại hồ đương ách (惠不在大,在乎當厄)

[17]  Thân nhân nhi nhân dân, nhân dân nhi ái vật  親親而仁民,仁民而愛物

[18] Ái hộ: yêu thương che chở

[19]  Phù Hiếu, đức chi bổn dã, giáo chi sở do sanh dã 「夫孝,德之本也,教之所由生也」

[20]  Trắc ẩn chi tâm, nhân giai hữu chi (「惻隱之心’人皆有之」)

[21]  Lực hành cận hồ nhân 「力行近乎仁」

[22] Ngũ phúc lâm môn「五福臨門」: Dân gian xưa thường đề cao 5 phước, bao gồm:  (1) Thọ mạng 「壽命」(2)  Tài phú「財富」 (3) Kiện khang 「健康」(4) Hiếu đức 「好德」(5) Thiện chung 「善終」

[23]  Lạc thiện hiếu thí (樂善好施)

[24] Tam thế oán: oán đến đời thứ ba

[25]  Thử thân bất hướng kim sanh độ, cánh đãi hà sanh độ thử thân 「此身不向今生度,更待何生度此身」

[26]  Thiên bất sanh Trọng Ni, vạn cổ như trường dạ. 「天不生仲尼,萬古如長夜」.

Trọng Ni là tên tự của Khổng Phu Tử.

[27]  Đăng cao tất tự ti, hành viễn tất tự nhĩ 「登高必白卑,行遠必自邇」

[28]  Tự Thiên Tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn 「白夭子以至於庶人,壹是皆以修身為本」

[29]  Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên 「建國君民,教學為先」

[30]  Vật tự bạo, vật tự khí; Thánh dữ Hiền, khả tuần trí. 「勿自暴,勿自棄,聖與賢,可馴致」

[31]  Ái tích vật mệnh

[32]  Ái thử thường lưu phạn, liên nga bất điểm đăng. 「愛鼠常留飯,憐蛾不點燈」

[33]  Cử bộ thường khán trùng nghĩ, cấm hỏa mạc thiêu sơm lâm. 「舉步常看蟲蟻,禁火莫燒山林」

[34]  Cần thị trí phú căn. Kiệm thị trì gia bổn 「勤是致富根,儉是持家本」。

[35]  “Cam tiết, cát; an tiết, hanh; khổ tiết: trinh hung, hối vong” 「甘節,吉;安節,亨;苦節,貞凶,悔亡」。


MỤC LỤC TOÀN SÁCH

CHƯƠNG 4 - XỬ LÝ VẤN ĐỀ